Tổng quan về Thương mại điện tử tại Việt Nam
Tổng quan về Thương mại điện tử tại Việt Nam, 361, Thương mại điện tử, Võ Thiện By, Thương mại điện tử, 08/05/2020 11:35:30
Theo khảo sát của MuaBanNhanh, thanh toán di động, marketing cá nhân hóa, social ecommerce là 3 xu hướng chính phản ánh thực trạng thương mại điện tử Việt Nam
Thương mại điện tử Việt Nam mùa dịch Covid
Các sàn Thương mại điện tử tiết chế các hoạt động quảng cáo và khuyến mãi mà thay vào đó là đẩy mạnh livestream và game trên ứng dụng và mạng xã hội. Mục đích là tận dụng lúc người dân ở nhà và có nhiều thời gian ngồi trước màn hình để tăng tương tác, tăng độ gắn kết với khách hàng, đồng thời thử nghiệm tính năng mới.
Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân nữa là nhu cầu mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trong mùa dịch thay đổi liên tục và khó đoán trước, có những ngành hàng hưởng lợi nhưng ngược lại cũng có những ngành hàng bị “thất sủng”.
Hưởng lợi đầu tiên là ngành hàng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Trong tháng 2, nhu cầu tìm mua trực tuyến cho các sản phẩm khẩu trang và nước rửa tay khô lần lượt tăng đến 610% và 680% so với tháng 1. Lượng truy cập website của Pharmacity quý này tăng 38% so với quý trước.
Sang đến tháng 3, khi người tiêu dùng ở nhà tránh dịch nhiều hơn thì đến lượt ngành bách hóa trực tuyến lên ngôi. Lượng truy cập vào website của Bách hóa Xanh quý này nhờ vậy đã tăng 49% so với quý 4/2019.
Éo le là các ngành này trước đó lại không phải là tâm điểm của thị trường TMĐT Việt Nam. Điển hình là trong top 50 website TMĐT Việt Nam chỉ có 2 website chuyên doanh hàng tạp hóa là Bách hóa Xanh và Big C, ít hơn nhiều so với 10 website ngành hàng di động và 7 website ngành hàng thời trang.
Ngược lại, chính các ngành trước đây là “gà đẻ trứng vàng” của TMĐT Việt Nam như thời trang và điện máy thì trong mùa dịch lại bị ảnh hưởng tiêu cực.
>>> Xem ngay: Top 10 quyển sách hay về thương mại điện tử nên đọc
Các mặt hàng online đang sốt hàng mùa dịch
1. Dụng cụ tập gym tại gia
Ngay từ khi COVID-19 mới xuất hiện tại Việt Nam, phong trào rèn luyện nâng cao sức khỏe đã xuất hiện mạnh mẽ trong cộng đồng, làm tăng nhu cầu cho các sản phẩm phục vụ hoạt động thể dục thể thao.
2. Webcam và bàn phím máy tính
Nhằm đảm bảo an toàn sức khỏe cho cộng đồng, nhiều công ty đã cho nhân viên của mình làm việc từ xa trong thời gian này. Như vậy cũng có nghĩa là nhiều nhân viên văn phòng đang phải sắm sửa công cụ để làm việc tại nhà hiệu quả hơn.
3. Vitamin C
Nhóm sản phẩm bảo vệ sức khỏe hiển nhiên sẽ được ưa chuộng trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh hai sản phẩm luôn cháy hàng là khẩu trang và nước rửa tay khô thì Vitamin C cũng là một mặt hàng đang được nhiều người lùng mua.
4. Máy chơi game và đồ chơi các loại
Tính đến nay, sinh viên học sinh cả nước đã có hơn 3 tháng nghỉ học do ảnh hưởng của COVID-19. Việc các em không thể đến trường dẫn đến các mặt hàng phục vụ nhu cầu giải trí tại nhà trở nên đắt hàng, đặc biệt là với các sản phẩm công nghệ cao.
5. Thiết bị nhà bếp
Một thay đổi lớn trong thói quen sinh hoạt của người dân trong thời điểm này là phải ăn uống hoàn toàn tại nhà, hiển nhiên sẽ dẫn đến hoạt động nấu nướng gia tăng. Vì vậy, các hộ gia đình cũng đã bắt đầu mua sắm thêm thiết bị nhà bếp.
6. Bao cao su
Hoạt động mua bán trực tuyến cho bao cao su vốn đã sôi động từ trước đến nay, nhưng trong tình hình người dân cả nước đang phải hạn chế đi lại và ở nhà nhiều hơn
>>> Có thể bạn quan tâm: Ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam
Bản đồ thương mại điện tử Việt Nam
Trả lời câu hỏi Tại sao mọi người mua sắm online? Những dịp mua sắm quan trọng trong năm? Tại sao người dùng từ bỏ giỏ hàng? Lý do vì sao khách hàng mới không quay lại? Lý do khách hàng rời khỏi trang web bán hàng của bạn? - Phương pháp nghiên cứu: Số liệu được ghi nhận từ hơn 300.000 thành viên mạng xã hội MuaBanNhanh
Giải pháp đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia. Theo Chương trình phát triển TMĐT quốc gia giai đoạn 2014 – 2020, một trong những giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển TMĐT là xây dựng được hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia để sử dụng rộng rãi cho các mô hình TMĐT, đặc biệt loại hình TMĐT DN - người tiêu dùng (B2C); thẻ thanh toán được sử dụng rộng rãi để giảm tỷ lệ sử dụng tiền mặt; áp dụng phổ biến chứng thực chữ ký số để đảm bảo an toàn, bảo mật cho các giao dịch TMĐT. Cụ thể, xây dựng hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia; xây dựng giải pháp thẻ thanh toán TMĐT tích hợp; xây dựng hệ thống quản lý trực tuyến hoạt động vận chuyển cho TMĐT; xây dựng hạ tầng chứng thực chữ ký số cho TMĐT. Bên cạnh đó, xây dựng các tiêu chuẩn trao đổi thông điệp dữ liệu trong TMĐT; xây dựng hệ thống đảm bảo lòng tin cho hoạt động mua sắm trực tuyến và cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến.
Thứ hai, xây dựng thương hiệu trực tuyến. Phát triển các sản phẩm cũng là một giải pháp quan trọng. Trong đó, xây dựng giải pháp bán hàng trực tuyến để hỗ trợ các DN vừa và nhỏ triển khai ứng dụng TMĐT; xây dựng và duy trì sàn giao dịch TMĐT nhằm quảng bá hình ảnh, thương hiệu của các DN Việt Nam. Bên cạnh đó, hỗ trợ, nâng cao năng lực cho DN xuất khẩu tham gia các sàn giao dịch TMĐT uy tín trong nước và thế giới; xây dựng các giải pháp để phát triển ứng dụng TMĐT trên nền thiết bị di động và phát triển nội dung số cho TMĐT. Đồng thời, triển khai các chương trình, giải pháp để xây dựng thương hiệu trực tuyến cho các hàng hóa, dịch vụ chủ lực của Việt Nam; xây dựng đồng bộ giải pháp đáp ứng đơn hàng trực tuyến để các DN triển khai ứng dụng; xây dựng các ứng dụng dịch vụ công trực tuyến hỗ trợ cho các cơ quan quản lý nhà nước và DN .
Thứ ba, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực. TMĐT đòi hỏi mối quan hệ chặt chẽ giữa người sản xuất, người phân phối, người tiêu thụ, các nhà công nghệ và cơ quan chính phủ. TMĐT bao gồm các giao dịch giữa DN với DN; giữa DN với người tiêu dùng, chủ yếu là trên thị trường bán lẻ; giữa DN và chính phủ trong việc mua sắm của các cơ quan nhà nước hay đấu thầu qua mạng và lập các website để cung cấp các dịch vụ công; giữa các cá nhân, những người tiêu dùng tự lập website hoặc thông qua các sàn giao dịch sẵn có để mua, bán, đấu giá hàng hóa… Các giao dịch trên một mặt, đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các thành tựu công nghệ thông tin mới phát sinh để phục vụ cho TMĐT và có khả năng thiết kế các phần mềm đáp ứng các nhu cầu của kinh tế số hóa. Mặt khác, đòi hỏi mỗi người tham gia TMĐT phải có khả năng sử dụng máy tính, có thể trao đổi thông tin một cách thành thạo trên mạng, có những hiểu biết cần thiết về thương mại, luật pháp… nếu là ngoại thương thì còn phải hiểu luật pháp quốc tế và ngoại ngữ nữa. Bởi vậy, phải đào tạo các chuyên gia tin học và phải phổ cập kiến thức về TMĐT không những cho các DN, các cán bộ quản lý của nhà nước mà cho cả mọi người; đồng thời tuyên truyền về lợi ích của TMĐT để từng bước thay đổi tập quán, tâm lý của người tiêu dùng từ chỗ chỉ quen mua sắm trực tiếp tại các siêu thị, các chợ chuyển sang mua sắm qua mạng.
Thứ tư, hoàn thiện môi trường pháp lý. Để TMĐT phát triển lành mạnh cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý, thông qua việc ban hành và thực thi các đạo luật và các văn kiện dưới luật điều chỉnh các hoạt động thương mại, thích ứng với pháp lý và tập quán quốc tế về giao dịch TMĐT.
Thứ năm, đảm bảo an toàn cho các giao dịch TMĐT. TMĐT có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có mặt trái là dễ bị các tin tặc phát tán các virút, tấn công vào các website; phát tán các thư điện tử, tin nhắn rác; đánh cắp tiền từ các thẻ ATM… Mặt khác, qua internet cũng xuất hiện những giao dịch xấu như: mua bán dâm, ma túy, buôn lậu, bán hàng giả, hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, tuyên truyền kích động bạo lực …
Thứ sáu, phát triển các dịch vụ công phục vụ cho TMĐT. Nhà nước không những đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đào tạo nhân lực và phổ cập kiến thức về TMĐT; tạo môi trường pháp lý; xây dựng kết cấu hạ tầng cho TMĐT và quản lý các giao dịch TMĐT để bảo vệ lợi ích của người tham gia mà còn phải phát triển các dịch vụ công nhằm thúc đẩy sự phát triển của TMĐT. Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công như hải quan điện tử; kê khai thuế và nộp thuế, làm các thủ tục xuất, nhập khẩu; đăng ký kinh doanh và các loại giấy phép chuyên ngành liên quan đến thương mại, giải quyết tranh chấp… trên mạng là những việc cần làm. Các cơ quan nhà nước phải ứng dụng TMĐT trong mua sắm công, đấu thầu; gắn với cải cách hành chính, minh bạch hóa, nâng cao hiệu lực nền hành chính quốc gia, và xây dựng chính phủ điện tử. Ngân hàng nhà nước cần tích cực triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt và tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến thanh toán điện tử, một khâu rất quan trọng trong hoạt động TMĐT.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, hiện các website của các DN Việt Nam chủ yếu dùng để giới thiệu sản phẩm và dịch vụ, khoảng trên 20% số website nhận đặt hàng qua mạng internet, song chỉ có 3,2% cho phép thanh toán trực tuyến. Đây là một rào cản lớn nhất đối với phát triển TMĐT.
Thứ bảy, tăng cường hơn nữa sự hợp tác khu vực và quốc tế trong phát triển TMĐT. Từ năm 2006 đến nay Việt Nam đã tích cực hợp tác đa phương về TMĐT với các tổ chức khu vực và quốc tế, như ASEAN, APEC, UNCITRAL (Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế)… Việt Nam cũng đã chủ động hợp tác song phương trong lĩnh vực này với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… Bộ Công Thương cũng đã hỗ trợ các DN, các hiệp hội của nước ta tham gia các tổ chức quốc tế về TMĐT, như Liên minh TMĐT châu Á - Thái Bình Dương (PAA), Liên minh các tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín châu Á - Thái Bình Dương (ATA). Năm 2008, Trung tâm phát triển TMĐT Vietnam (EcomViet) đã trở thành thành viên chính thức của ATA. Thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác khu vực và quốc tế này để thực hiện tốt các cam kết quốc tế về TMĐT nhằm xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn về trao đổi dữ liệu điện tử trong nước hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.
Tổng quan về Thương mại điện tử tại Việt Nam, 361, Thương mại điện tử, Võ Thiện By, Thương mại điện tử, 08/05/2020 11:35:30